Bốn ngôi đền xác định địa giới Thăng Long, thờ bốn vị thần bảo vệ đất kinh kỳ
từ bốn phía, đã tồn tại từ bao đời nay trong tâm tưởng người dân
Việt.
Đền Bạch Mã trấn phía Đông
Đền Bạch Mã xưa thuộc
phường Hà Khẩu, tổng Hữu Túc, huyện Thọ Xương, phủ Hoài Đức - là cửa sông Tô
Lịch thông với sông Hồng - hai dòng sông huyết mạch của Hà Nội cổ; nay tọa trên
phố Hàng Buồm.
Đền Bạch Mã trấn phía Đông. |
Đền Bạch Mã thờ thần Long Đỗ (tức Bạch Mã), hay còn gọi là Tô Lịch giang thần, thành hoàng Hà Nội gốc. Đây cũng là vị thần đã làm thất bại các pháp thuật của viên quan đô hộ thời Bắc thuộc là Cao Biền.
Theo truyền thuyết, khi vua Lý Công Uẩn định đô Thăng Long (năm 1010), xây thành mà cứ bị sụt lở, nhà vua tới đây cầu lễ và lạ thay, một buổi sáng chợt thấy có ngựa trắng từ trong đền đi ra, chạy vòng quanh khu vực đang xây thành, chạy đến đâu để dấu chân đến đấy rồi trở lại đền và vụt biến mất. Vua Lý cứ theo vết chân ngựa mà xây, thành không lở nữa. Từ đó, thành được đắp cao lên, rất vững chắc. Thành xây xong, nhà vua xuống chiếu cho chúng dân Thăng Long phong thần Long Đỗ làm thành Hoàng bảo vệ cho Thăng Long. Từ đấy, ngựa trắng là một biểu tượng thiêng liêng của đền.
GS. Trần Quốc Vượng cho rằng, ngựa trắng là biểu tượng thần thoại của mặt trời. Đền Bạch Mã trấn cửa Đông kinh thành Thăng Long. Ngựa trắng từ đền ra, đi một vòng từ đông sang tây rồi lại quay về đền. Đó là biểu tượng sự vận động biểu kiến của mặt trời, mặt trời mọc đằng đông, lặn ở đằng tây rồi lại quay về đông.
Tượng Bạch Mã trong đền. |
Đền Bạch Mã được xây theo hình chữ “tam”, bên ngoài là phương đình tám mái,
có một tam bảo và có hơn 13 hoành phi, văn bia nói về thần Long Đỗ và Bạch
Mã. Kiến trúc đặc sắc của đền là mái vòm hình mai con cua, có tác dụng khép kín
các đơn nguyên kiến trúc, liên kết chúng lại dưới một hình thức đặc biệt che đỡ
toàn bộ bên trên, tạo ra sự rộng rãi, đồng thời khiến cho ngôi đền trở thành một
công trình nghệ thuật kiến trúc hiếm thấy giữa các kiến trúc tín ngưỡng cùng
niên đại ở vùng đồng bằng Bắc Bộ.
Trải qua năm tháng, đền đã được trùng
tu tôn tạo nhiều lần. Cuối thế kỷ XVII, đền được tôn nền cũ và mở rộng. Năm
1781, chúa Trịnh cho dân các giáp Mật Thái, Bắc Thượng, Bắc Hạ thuộc phường Hà
Khẩu chung quanh đền Bạch Mã được "tạo lệ" (sắm lễ vật tế, không phải sưu sai,
tạp dịch khác). Năm 1829, sửa chữa đền thêm tráng lệ. Năm 1839, dựng văn chỉ ở
bên trái đền, dựng Phương đình để làm nơi cúng lễ các tuần tiết.
Năm
1986, đền Bạch Mã đã được xếp hạng Di tích lịch sử - văn hóa quốc gia. Lễ
hội hàng năm diễn ra vào ngày 13/2 âm lịch.
Đền Voi Phục trấn phía
Tây
Đền còn có tên là Thủ Lệ hay Linh Lang do thờ thần Linh Lang Đại
Vương. Đền nằm phía Tây kinh thành Thăng Long cũ, tọa lạc bên hồ Thủ Lệ, nay
thuộc phường Cầu Giấy.
Theo Thần tích đức Linh Lang Đại vương và sách Đại
Nam nhất thống chí, Linh Lang là con trai thứ tư của Vua Lý Thánh Tông. Khi đất
nước có giặc ngoại xâm, Hoàng tử nhỏ vươn mình trở thành một dũng sĩ cưỡi voi
xung trận, diệt tan quân xâm lược. Sau chiến thắng, bỗng nhiên hoàng tử lâm
bệnh, vua cha đến thăm, chàng cho biết mình không phải là người trần rồi biến
thành con giao long trườn xuống hồ Dâm Đàm và biến mất. Vua cho lập đền thờ,
phong là Thượng đẳng thần.
Đền Voi Phục trấn phía Tây. |
Đền Voi Phục có dạng chữ Công. Tiền tế 5 gian, kết cấu vì chồng rường, mái lợp ngói mũi hài cổ. Trung đường 1 gian chạy dọc vào phía trong nối với hậu cung. Tại tòa này được đặt ngai lớn chạm khắc hình rồng, hoa lá tỉ mỉ, các nét chạm mang nghệ thuật thế kỷ XIX. Dưới ngai thờ thần là tượng 2 vị tuỳ tướng quỳ chầu.
Hậu cung cũng 5 gian, gian chính giữa ở vị trí sâu và cao nhất là pho tượng đức Linh Lang Đại vương với nét mặt thanh tú, cao sang. Phía trước pho tượng Ngài là một hòn đá lớn được đặt trong hộp kính. Hòn đá có vết lõm, tương truyền thần đã từng gối đầu trên hòn đá này. Hai bên hòn đá là tượng 2 vị phụ tá đứng chầu.
Trong đền, ngoài các pho tượng còn có hoành phi, câu đối, nhang án, long ngai, cửa võng bát bửu cùng các đồ tế khí. đều được sơn son thếp vàng lộng lẫy.
Đền Voi Phục được Bộ Văn hóa - Thể thao - Du lịch xếp hạng di tích lịch sử
văn hóa ngày 28/4/1962. Hàng năm, lễ hội được tổ chức từ mùng 9 đến 11 tháng 2
âm lịch.
Đền Kim Liên trấn phía Nam
Đền vốn được lập để thờ Cao Sơn Đại Vương; trước đây thuộc địa phận phường
Kim Hoa, sau thuộc phường Đông Tác, huyện Thọ Xương, phủ Hoài Đức, nay là phường
Phương Liên, quận Đống Đa.
Đình Kim Liên. |
Theo tín ngưỡng dân gian, Cao Sơn Đại Vương là một người con của Lạc Long Quân và Âu Cơ, sau theo mẹ lên núi. Còn tài liệu lưu giữ tại đền ghi chép, đền được xây dựng dưới thời vua Lý Thái Tổ ngay khi vị hoàng đế này rời đô tới Thăng Long với mục đích để bảo vệ kinh thành mới ở hướng Nam. Năm 1509, quân đội của Lê Tương Dực từ Thanh Hóa tiến về Thăng Long để lật đổ Lê Uy Mục đã đi qua đây, thấy đền thờ Cao Sơn Đại Vương liền vào xin phù hộ. Sau đó một tuần, sự nghiệp của Lê Tương Dực thành công. Vị vua này liền cho xây lại đền Kim Liên với kiến trúc như hiện nay.
Kiến trúc chính của đền nằm trên gò cao, bao gồm tam quan và đền thờ thần. Chín bậc gạch cao được xây bằng những viên gạch vồ có kiến trúc lớn của thời Lê Trung hưng, nối kết bộ phận kiến trúc phía ngoài với phần kiến trúc chính ở trên gò. Hai bên bậc thềm, ở sát sân gạch, đặt 2 sấu đá thời Lê, hướng ra phía cổng ngoài. Đi lên hết các bậc thềm, gặp tam quan đền Cao Sơn, đó là 1 nếp nhà 3 gian xây kiểu tường hồi bít đốc. Bốn bộ vì đỡ mái, được làm theo kiểu chồng rường, giá chiêng, cột trốn. Các con giường được trang trí bằng kỹ thuật chạm nổi các hình mây cuộn, câu đầu và 2 bẩy của hai vì ngoài được trang trí phượng hàm thư, long mã, rồng chạm bong kênh, chạm lộng nhiều lớp.
Long ngai thờ thần Cao Sơn có kích thước lớn, chạm khắc tinh vi, được làm theo kiểu chân quì dạ cá, các lớp trên chạm thủng hoa dây, là một hiện vật quý, hiếm. Bên cạnh còn 39 đạo sắc phong cho thần Cao Sơn Đại Vương, trong đó có 26 đạo thời Lê Trung hưng, 13 đạo thời Nguyễn, sớm nhất là sắc niên hiệu Vĩnh Tộ 2 (1620).
Sau này, dân làng Kim Liên đã lập thêm cổng tam quan ở phía trước cổng đền
ngay sát đầm Kim Liên và bổ sung thêm một số kiên trúc mới, tạo thành đình Kim
Liên. Ngoài Cao Sơn Đại Vương, trong đền và đình này còn thờ Tam Phủ, thờ Mẫu và
thờ Bác Hồ.
Lễ hội đền Kim Liên mở vào ngày 16-3 âm lịch hàng
năm.
Đền Quán Thánh trấn phía Bắc
Đền Quán Thánh thờ Huyền
Thiên Trấn Vũ - một vị thần trấn giữ hướng Bắc kinh thành. Đời Lê, đền thuộc
phường Thụy Chương, huyện Vĩnh Thuận, phía Nam Hồ Tây, nay ở ngã tư đường Thanh
Niên và đường Quán Thánh.
Theo sử sách, Huyền Thiên Trấn Vũ là thần cai
quản phương Bắc giúp dân trừ tà ma, yêu quái phá hoại đời sống yên lành vùng
chung quanh thành Thăng Long: trừ rùa thành tinh (đời Hùng Vương 14); trừ cáo
chín đuôi ở Tây Hồ; giúp An Dương Vương trừ tinh gà trắng xây thành Cổ Loa; diệt
hồ ly tinh trên sông Hồng đời vua Lý Thánh Tông... Đến thời nhà Lê, các vua cũng
thường đến đây để cầu mưa mỗi khi có hạn hán.
Đền Quán Thánh trấn phía Bắc. |
Đền Quán Thánh được xây dựng vào những năm đầu khi Lý Thái Tổ dời đô từ Hoa Lư ra Thăng Long. Năm 1823, Vua Minh Mạng lên ngôi đổi tên là Trấn Vũ Quán. Đến đời vua Thiệu Trị năm 1842, đổi tên là đền Quán Thánh như hiện nay.
Đền đã qua nhiều lần sửa chữa, kiểu kiến trúc hiện nay là của thời Nguyễn, hồi thế kỷ 19, bao gồm: tam quan, sân, ba lớp nhà tiền đế, trung đế, hậu cung. Trong đền có bức tượng Trấn Vũ đúc bằng đồng đen năm 1667, cao 3,69 m, nặng khoảng 4 tấn - đây là một công trình nghệ thuật độc đáo duy nhất tại Việt Nam, khẳng định nghệ thuật đúc đồng và tạc tượng của người Hà Nội cách đây ba thế kỷ. Tượng có hình dáng một đạo sĩ ngồi, y phục gọn gàng nhưng tóc lại bỏ xõa, chân không mang giày, tay trái bắt quyết, tay phải chống gươm thần có rắn quấn quanh và chống lên lưng rùa.
Ngoài nghệ thuật đúc đồng, đền Quán Thánh còn nổi tiếng với vẻ đẹp của nghệ thuật chạm khắc gỗ. Trên các bộ phận kiến trúc bằng gỗ của ngôi đền các đề tài như tứ linh, dơi, cá, tùng, trúc, cúc, mai, lẵng hoa, bầu rượu, thanh gươm, cảnh sinh hoạt của trần gian và thượng giới... được chạm khắc một cách tinh xảo mang đậm phong cách nghệ thuật thời Lê.
Đền Quán Thánh tổ chức chính hội vào ngày 3/3 âm lịch.
+ PHẢN HỒI CỦA BẠN ĐỌC VỀ BÀI VIẾT:
- Còn một chút sen (27/11/2011)
- Hãy giữ lòng vui (25/11/2011)
- Hôm qua đã không còn (24/11/2011)
- Dẫu gai đời đâm rớm máu đôi chân… (23/11/2011)
- Giải mã cặp cổ tự 'song sinh' bí ẩn ở VN (22/11/2011)
- Lên voi, xuống... (21/11/2011)
- Bướm, hoa, và rác (17/11/2011)
- Ta còn gì đâu ? (17/11/2011)
- Làm chủ thời gian theo lời Phật dạy (17/11/2011)
- Vượt qua mặc cảm (14/11/2011)
Video
Liên kết hữu ích
Tỷ giá ngoại tệ
Mã | Mua | Bán |
---|