Lượt thăm:240885490   Đang Online: 1030

Cuộc sống quanh ta » Sức khỏe là Vàng »


Số lượt xem: 3462
Gửi lúc 15:33' 09/04/2012
'Viagra' thời cổ đại: Huyền bí và Sự thật

Dù được thần bí hóa nhưng qua thời gian, các nhà y học hiện đại đã tìm ra được yếu tố khoa học của các loại xuân dược cổ xưa.


Qua thời gian, các loại động vật, thực vật, khoáng vật được dùng chế xuân dược càng nhiều. Theo nghiên cứu của y học hiện đại, nhiều dược liệu để điều chế xuân dược cổ đại quả là có tác dụng tráng dương, kích thích sinh dục, chỉ có điều người xưa đã phủ lên nó bức màn huyền bí, thậm chí hoang đường.

Chủng loại của xuân dược

Theo Khai Nguyên Thiên Bảo di sự viết về Đường Huyền Tông: “Minh Hoàng sủng ái Dương Quý Phi, không màng triều chính. An Lộc Sơn muốn hưởng thánh ân bèn tìm dâng 100 viên thuốc gọi là “Trợ tình hoa hương”, to như hạt gạo, màu đỏ. Mỗi khi vào hậu cung thì ngậm một viên, dục tình bộc phát, giao hoan bền bỉ, gân cốt không mỏi. Ngoài ra, những chuyện về Tùy Dạng Đế hay trong cung đình triều Minh, Thanh đều có liên quan đến xuân dược. Tất nhiên, việc cụ thể về nhân vật hay sự kiện là không đáng tin nhưng truyền thống sử dụng xuân dược của người Trung Hoa cổ, đặc biệt trong chốn cung đình, là không thể nghi ngờ.



Cung nữ chờ thánh ân.


Dược tính của xuân dược có 2 loại: Loại thứ nhất có hiệu ứng kịch liệt, sau khi sử dụng là có tác dụng ngay trong một thời hiệu nhất định. Khi thuốc phát tán bắt buộc phải thực hiện tính giao, nếu không “lửa dục đốt thân, hậu quả khôn lường”. Loại thứ hai có tác dụng hòa hoãn, sử dụng lâu dài mới có hiệu quả, vì thế xuân dược loại này khó phân ranh giới với các loại “bổ dược”. Theo lý luận Trung y, căn bản của tráng dương là ở bổ thận vì thận tàng tinh, chủ khí tiên thiên, bổ thận có ích cho việc kéo dài tuổi thọ. Bởi thế, trong các bài bổ dược được gọi là có tác dụng “diên niên ích thọ” hầu hết đều có thành phần “tráng dương” và “tư âm”. Những dược liệu như lộc nhung, câu kỷ là loại bổ dương thường dùng nhất thời cổ.

Loại xuân dược “nội phục” - uống trong, cũng có tác dụng với nữ giới, uống vào có thể kích thích người nữ xuân tình rạo rực, khó lòng kiềm chế. Đây không phải là vô căn cứ, trong dược phẩm cổ đại và hiện đại đều có loại thuốc kích dục này.

Tên gọi của các loại xuân dược cũng tuân theo quy định riêng. Có loại chỉ rõ vị thuốc chủ yếu được dùng, như: “Hưng dương ngô công đại” (dùng con rết), “Long cốt trân châu phương” (dùng xương hóa thạch), “Hải cẩu đại bổ tễ” (dùng thận hải cẩu). Có loại chỉ rõ công dụng, như “Trị nam tử linh âm trưởng đại phương” (làm dương vật lớn ra), “Linh nữ ngọc môn tiểu phương” (làm âm đạo nhỏ lại). Có loại lại mượn tên trong truyền thuyết, như “Đát Kỷ nhuận hộ phương”, “Thủy Hoàng đồng nữ đan”, “Võ Tắc Thiên hoa tâm động”, “Tố Nữ ngộ tiên đan”…

Các loại thực phẩm, dược phẩm bổ dương

Qua thời gian, các nhà y thuật cũng dần vén bức màn thần bí của các loại xuân dược. Ví dụ, loại thuốc nhục thung dung (crobanche coerulescens) có ở vùng Tân Cương, Nội Mông, trong Thần Nông bản thảo kinh xếp vào hạng thượng phẩm, có tác dụng “bổ thận, tráng dương, dưỡng ngũ tạng, ích tinh khí”. Theo phân chất hiện đại, loại thuốc này có chứa nhiều vitamin E, chất trung tính kết tinh vegeto alkali, có tác dụng trị liệt dương, xuất tinh sớm, làm tăng trọng lượng tử cung, tăng tiết nước bọt, hạ huyết áp… Nhưng trong Dậu Dương tạp trở đời Minh thì nhục thung dung có xuất xứ ly kỳ: “Nhục thung dung sản sinh ở vùng biên ải phía Tây, vùng cây cổ thụ. Nó là do bầy ngựa tụ lại, giao hợp với nhau, tinh rơi xuống đất mà mọc lên. Da như vảy tùng, thân mềm nhuận như thịt. Những phụ nữ không chồng miền biên ải thường dùng nó để trợ dâm. Thứ này một khi gặp âm khí thì lớn nhanh rất mau, nên hái làm thuốc thì làm mạnh dương đạo, bổ âm ích tinh”.

Con tắc kè (cáp giới, gekko gekko) người xưa gọi là loài có “tính dâm” vì thấy chúng giao cấu cả ngày không rời. Loại tốt nhất là tắc kè ở Ngô Châu, Quảng Tây, đem sấy khô nghiền bột uống hoặc dùng cả đôi ngâm rượu đến khi có màu xanh ngọc bích là dùng, được xưng là “tráng dương đại bổ”. Vì thế, tắc kè là một dược liệu chủ yếu trong xuân dược cổ đại. Ngoài ra, thường thấy các loại như hải mã, lộc nhung, đinh hương, câu kỷ, ba kích, thù du, xà sàng tử, thố ty tử, nhân sâm, phục linh, dương khởi thạch… Còn có những thứ quái dị như vân mẫu (mica), thạch hôi (vôi), tử hà xa (nhau thai), thậm chí cả thai nhi… Quả là để thỏa mãn nhu cầu tình dục, người ta đã không từ một thứ gì.

Trong rất nhiều sách viết về tình yêu và tình dục của Trung Quốc xưa, tuy tuyên truyền công hiệu của xuân dược nhưng lại không tán thành việc sử dụng thứ thuốc kích thích này. Những nhân vật sử dụng xuân dược đều thuộc phản diện và có kết cục thê thảm. Xuân dược thường quan hệ mật thiết với quan điểm “Túng dục vong thân”, điều này là nhất quán. Điển hình nhất là “Kim Bình Mai” đã cho Tây Môn Khánh mất mạng vì uống quá lượng xuân dược của Phan Kim Liên; trong Triệu Phi Yến ngoại truyện, Hán Thành Tổ cũng chết thảm vì uống xuân dược quá liều; Lý Thủ Bị trong Kim ốc mộng cũng chết tương tự…
Tâm lý và xuân dược

Thái độ phủ định xuân dược một cách phổ biến lại phù hợp với lý luận trong thuật phòng trung “xuân dược tốt nhất là ái tình”, đây chính là vấn đề tâm lý. Ngay trong các tác phẩm văn học Trung Quốc hiện đại vẫn mang tính kế thừa một cách tự giác về quan điểm này. Như Trang Chi Điệp trong Phế đô là nhân vật vốn mắc chứng liệt dương, anh ta không thể “làm ăn” gì với vợ mình là Ngưu Nguyệt Thanh - là một mỹ nhân, nhưng bất ngờ anh ta lại “làm ăn” được với tình nhân Đường Nguyệt Nhi, đó là vì anh ta với vợ đã không còn tình yêu, còn tình nhân là ngọn lửa đốt lên tình yêu mới trong anh ta.

Ngay các loại “xuân dược hiện đại” là Viagra, Levitra hay Cialis đều nhấn mạnh đến yếu tố tâm lý: Người sử dụng phải có ham muốn tình dục thì thuốc mới có tác dụng. Xuân dược xưa rất chú ý đến “hiệu ứng ám thị” để trở thành thứ thuốc đặc hiệu tốt nhất về tình dục, sau khi sử dụng, dưới tác dụng tâm lý ám thị, thuốc sẽ có công hiệu, vì thế nó mới được mang màu sắc thần bí. Những cuộc thử nghiệm về giả dược hiện nay đã chứng minh điều đó.


Nỗi sợ của nam giới

Nam giới luôn biểu hiện năng lực tính dục, lấy đó làm vinh dự nhưng đồng thời vẫn luôn ôm một nỗi lo sợ thâm sâu khi đối diện với khả năng tính dục của nữ giới.


Trong thế giới động vật, chúng ta thường thấy một con đực cường tráng, mạnh mẽ cai quản cả đàn, đồng thời nó cũng độc chiếm những con cái trong đàn để phối ngẫu.

Con người tiến hóa từ động vật, những hình ảnh xa xưa vẫn còn lưu giữ lâu dài trong ký ức. Vì vậy, trong xã hội cổ đại, khả năng tính dục là tượng trưng cho sức mạnh và địa vị của nam giới. Chư hầu phải có “1 vợ, 9 hầu nữ”, thiên tử phải có “ 3 cung, 9 phi, 27 thế phụ, 81 ngự thê”(theo Lễ ký – Hôn nghi), ngoài ra còn tùy ý mua, cho, tặng.

“Kỹ năng nam tính” và xuân dược

Điều mâu thuẫn lớn nhất là nam giới luôn biểu hiện năng lực tính dục, lấy đó làm vinh dự nhưng đồng thời vẫn luôn ôm một nỗi lo sợ thâm sâu khi đối diện với khả năng tính dục của nữ giới. Nỗi lo sợ này mang tính phổ quát trên toàn thế giới.

Trong rất nhiều truyền thuyết và tác phẩm cổ xưa, nữ giới bị miêu tả là dâm đãng, không bao giờ thỏa mãn dục tính. Những người theo chủ nghĩa cấm dục căn cứ vào đó tiến thêm một bước nhấn mạnh “tính tất yếu của cấm dục” vì nam giới vĩnh viễn không thể nào thỏa mãn nữ giới vốn có “tính dục tà ác không giới hạn”.



Các phi tần của vua Hàm Phong đời Thanh.


Đại biểu cho phe này là những người theo chủ nghĩa cấm dục của giáo hội trung cổ châu Âu. Nhưng những người theo phe chủ trương thỏa mãn tình dục thì lại căn cứ vào đó mà nhấn mạnh “tính tất yếu của việc phát triển kỹ năng nam tính” thông qua dược liệu hoặc những phương pháp đặc dị, đại biểu cho phe này là những người theo thuật phòng trung, xuân dược Trung Hoa cổ đại.

Sự lo sợ của nam giới đối với nữ giới là có cơ sở. Xét từ góc độ sinh lý học, trên đà tiến hóa của nữ tính đã vượt qua “tính phát dục định kỳ” của động vật, trở nên mọi lúc đều có thể động tình ân ái, đồng thời nữ giới cũng không có thời điểm “không đáp ứng tình dục” như nam giới, do đó có thể liên tục nhiều lần đạt đến cao trào.

Mặt khác, về phương diện khả năng tính dục, nam và nữ còn không đồng bộ về thời gian. Theo sinh lý thông thường, đỉnh cao tính dục của nam giới ở khoảng 20 tuổi nhưng lúc này thường thì anh ta chưa “công thành danh tựu”, khó hấp dẫn phái nữ. Trong khi đó, đỉnh cao tính dục của nữ giới là từ 30 tuổi trở đi. Khi nam giới lớn tuổi thì sự “không đồng bộ” xảy ra, xuất hiện hiện tượng “âm thịnh dương suy”. 

Lời dạy của đế sư

Nhưng ở nam giới thì khuynh hướng “đa phối ngẫu” cao hơn, luôn muốn độc chiếm nhiều bạn tình, do đó mới đẻ ra cái thuật “thái âm bổ dương” trong tính giao. Như thế, một kẻ yếu chống với nhiều người mạnh mà muốn không lo sợ sao? Chẳng trách các nhà phòng trung thuật xưa xem tính giao như trận chiến đấu thật sự, phải luyện phép “ngự nữ”(chế ngự nữ giới) và hình dung “như dây cương mục mà điều khiển ngựa dữ, như sắp rơi xuống vực sâu mà phía dưới cắm đầy dao”(theo Y tâm phương, quyển 28), còn nỗi sợ nào lớn hơn nữa?

Như đã nói, nam giới vẫn luôn mang mối lo tiềm ẩn về tính dục trước nữ giới, luôn sợ bị xem là “kẻ yếu”. Vấn đề này từ xưa đã có và nay càng khốc liệt. Rất nhiều bậc “tu mi nam tử” đã phải khóc thầm vì không thể thỏa mãn nhu cầu tình dục của thê thiếp hoặc tình nhân. Đã sợ thì phải mưu tìm kế sách an toàn.

Có 2 con đường: Một là “làm suy yếu đối phương trước khi giao chiến”, trong thuật phòng trung có chỉ dẫn vô vàn kỹ xảo nhằm làm cho người nữ tiến gần đến mức cao trào trước, sau đó mới thực hiện tính giao, như vậy bên nam mới có hy vọng chiến thắng. Hai là làm cho lực lượng mình thật mạnh mẽ rồi sau mới giao chiến, phương pháp này lại chia làm 2 cách: Sử dụng các “chiêu thức” bế tinh, di chuyển sức chú ý… hoặc là sử dụng “xuân dược” mà chúng ta đang nói, mục đích dùng xuân dược cũng là làm cho bên nam “đánh lâu không bại”.

Các hoàng đế Trung Hoa xưa đều có nhiều phi tần, cũng như mọi đàn ông khác, vua có nghĩa vụ “ban ân mưa móc” để tạo dòng “thánh chủng”. Vì vậy, các đế vương thời cổ đại đều lo lắng không biết làm cách nào để lấy cái yếu của một nam chọi với cái mạnh của nhiều nữ. Trong Ngọc phòng bí quyết dẫn lời Bành Tổ nói  về tầm quan trọng của “thuật ngự nữ”: “Hoàng đế “ngự” 1.200 cung nữ mà đạt đạo thành tiên, tục nhân chỉ lo một vợ mà yểu mệnh, biết và không biết xa nhau biết chừng nào!”.

Vấn đề này có chứng cứ rất rõ ràng, trong các thư tịch về thuật phòng trung giai đoạn đầu đều thường áp dụng hình thức kể về việc hoàng đế đến thỉnh giáo một bậc thầy về thuật ngự nữ, xuân dược hay thuốc tráng dương. Thầy có thể là nam (như Đại Thành Tử) hoặc nữ (Tố Nữ), đều gọi là “đế sư”, tức thầy của hoàng đế. Chẳng hạn trong sách Thập vấn (hỏi 10 điều) chép trên thẻ tre được khai quật ở khu mộ nhà Hán, gò Mã Vương, có điều thứ hai là Hoàng đế hỏi Đại Thành về các thuật làm thế nào để kéo dài quá trình giao hoan, làm sao để người nữ đạt đến cao trào...

Những bài xuân dược cổ xưa

Đại Thành Tử là nhân vật truyền thuyết, có thuyết nói ông là đế sư của vua Thần Nông, có thuyết nói là người thời Đại Vũ… Đại Thành Tử đã giới thiệu cho Hoàng Đế những loại thực phẩm tráng dương, đại khái là khuyên nên ăn bá tử nhân (nhân của hạt tùng), uống sữa bò để chống suy lão, đẹp dung nhan; muốn giao hoan nhiều thì phải thường ăn loài phi cầm như chim sẻ, trứng chim, gà trống…

“Dưỡng sinh phương” được các nhà khảo cổ phát hiện khai quật những ngôi mộ đời Hán ở gò Mã Vương, trong đó có khắc 3 bài thuốc xuân dược có tác dụng tráng dương xưa nhất Trung Hoa - và có lẽ xưa nhất thế giới, dược liệu được dùng chủ yếu là trứng chim, trứng gà. Đây là một bài tiêu biểu: “Vào mùa xuân dùng trứng chim, đánh tan ra, tráng chung với bột gạo, viên thành hoàn nhỏ, ăn nhiều rất tốt”. Đây chính là xuân dược thời kỳ đầu, thành phần gồm có cả động vật và thực vật.



Tác giả: DHT - Sưu tầm

Các tin khác



«Quay lại

↑ Top


Video

Liên kết hữu ích

Tỷ giá ngoại tệ

MuaBán
Source vietcombank.com.vn

Quảng cáo

HANDICO6
DỰ ÁN C1 KHU ĐÔ THỊ TRUNG HOÀ NHÂN CHÍNH
DỰ ÁN C2 TRUNG HOÀ – NHÂN CHÍNH
DỰ ÁN 1152 – 1154 ĐƯỜNG LÁNG
Dự án C1
Dự án C1
Dự án C2
DỰ ÁN C2 TRUNG HOÀ – NHÂN CHÍNH
Dự án C2